Tranh dân gian Hàng Trống là một trong những dòng tranh độc đáo, kết tinh nhiều giá trị thẩm mỹ, tinh thần và tín ngưỡng của người Kinh kỳ xưa
Tranh dân gian Hàng Trống được coi là dòng tranh đặc trưng của đất Kinh kỳ, phục vụ nhu cầu của tầng lớp thị dân. Đề tài trong tranh thể hiện sự giao thoa giữa Phật giáo, Nho giáo với nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá hàng ngày. Chưa có tài liệu nào khẳng định thời điểm, hoàn cảnh ra đời chính xác của dòng tranh này nhưng đa số các nhà nghiên cứu cho rằng tranh dân gian Hàng Trống ra đời vào cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn (khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỉ 19); phát triển rực rỡ vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỉ 20 và suy tàn vào nửa cuối thế kỷ 20. Ban đầu tranh có hai đề tài chính là Tranh thờ và Tranh tết, theo thời gian xuất hiện thêm nhóm tranh thứ 3 là Tranh thế sự.
Trải qua thăng trầm lịch sử, đến nay chỉ còn duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên (con trai nghệ nhân Lê Đình Liệu) bảo tồn và phát huy dòng tranh này tại số 22 phố Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Ông Lê Đình Nghiên – người nghệ nhân duy nhất còn lại của dòng tranh Hàng Trống.
Nghệ nhân Lê Đình Nghiên, người nắm rõ bí quyết làm tranh dân gian Hàng Trống chia sẻ: “Gia đình tôi là gia đình nhiều đời làm tranh. Theo những người cao tuổi trong gia đình khi còn sống cho biết thời ấy phố hàng Trống rất nhiều người làm tranh. Qua thời gian, chiến tranh loạn lạc nhiều gia đình không còn làm nữa nhưng gia đình tôi vẫn truyền nghề tới đời tôi bây giờ”.
Do thời gian, chiến tranh, nhiều bản khắc của dòng tranh Hàng Trống bị thất lạc. Hiện nay, số lượng bản khắc gỗ còn lại khoảng gần 30 ván, có tuổi thọ chừng 200 năm. Trong số bản khắc còn lưu giữ, bản lớn nhất có khổ 120cm x 80cm, bản nhỏ nhất khổ 45cm x 30cm. Từ bản khắc quan trọng này, những bức tranh được in ra bằng thứ mực Tàu mài nguyên chất.
Ván khắc tranh “Xích Hổ” và tranh “Đám cưới chuột”.
Ván khắc tranh “Chợ quê”.
Nghệ nhân Lê Đình Hoàn (con trai nghệ nhân Lê Đình Nghiên) thực hiện các thao tác để in tranh
Thao tác nấu hồ
Công đoạn bồi tranh
Sau khi tranh được dàn phẳng, nghệ nhân tiếp tục dàn bo sao cho bức tranh cân đối và chính xác. Mặt lưng của tranh sẽ được quết một lượt hồ. Sau đó, nghệ nhân đặt lên một lớp giấy mới rồi tiếp tục bồi thật đều. Tùy vào từng tác phẩm và yêu cầu của khách đặt hàng có thể bồi từ 3 đến 5 lớp giấy dó bóc đôi. Cuối cùng, tranh được nhấc ra khỏi bàn bồi, dán lên tường hoặc tấm gỗ để phơi khô.
Công đoạn cuối cùng là vẽ màu cho tranh. Trước hết, nghệ nhân hoàn thiện màu cho tranh ở mức cơ bản. Những màu sắc chủ đạo của tranh dân gian Hàng Trống là lam, hồng, lục, đỏ, da cam, vàng.
Nghệ nhân thực hiện công đoạn vẽ màu cho tranh
Kỹ thuật vờn màu (hay còn gọi là kỹ thuật cản màu) là tinh hoa của tranh Hàng Trống. Nghệ nhân dùng một chiếc bút lông dáng bẹt, mài cùn, bọc thiếc/sắt lên gốc. Một nửa ngọn bút chấm màu, nửa kia chấm nước, viền dọc theo đường in sẵn. Kỹ thuật này tạo ra những mảng màu đậm nhạt, lột tả sự mềm mại và làm tăng tính sinh động của chi tiết trong tranh, không còn là mảng dẹt như cách thể hiện của các dòng tranh đương thời.
Cùng với việc vờn màu, các nghệ nhân còn sử dụng kỹ thuật vẽ nét phin (hay chuốt nét/công bút) để làm nổi bật hơn những chi tiết đặc tả. Thao tác này phải thật chính xác, đưa nét dứt khoát và không run tay. Với cách thức sáng tạo của riêng mình, các nghệ nhân dòng tranh dân gian Hàng Trống không chỉ tạo nên nét riêng cho dòng tranh mà còn làm bật lên sức sống nội tại của nhân vật.
Không gian lưu giữ và phát huy giá trị tranh Hàng Trống tại nhà riêng của nghệ nhân Lê Đình Nghiên
Dù mang nhiều giá trị tinh thần nghệ thuật đẹp đẽ và nhân văn, tranh Hàng Trống đang đứng trước nguy cơ mai một, thất truyền. Cả một phố nghề sầm uất khi xưa còn sót lại duy nhất người nghệ nhân già Lê Đình Nghiên, cũng đã ở ngưỡng tuổi xế chiều. Sau nghệ nhân Lê Đình Nghiên, anh Lê Hoàn, con trai út của ông là người kế thừa truyền thống của gia đình và tiếp tục nối dài mạch sống của dòng tranh dân gian Hàng Trống. Với sức trẻ và lòng đam mê nghề nghiệp, ngoài những kỹ thuật làm tranh được cha mình truyền dạy, Lê Hoàn trong khoảng thời gian làm việc ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam còn tham gia nhiều lớp đào tạo về bảo quản, phục chế tranh tạo cơ sở để anh trau dồi thêm kiến thức và kỹ thuật làm tranh
Bài và ảnh: Việt Trang
Nguồn: HanoiCreativeCity
15/04/2020